Cuối năm 2025, công an Việt Nam liên tiếp ban hành “Quyết định truy nã” đối với bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như), luật sư Nguyễn Văn Đài và nhà báo Lê Trung Khoa theo Điều 117 Bộ luật Hình sự – tội danh quen thuộc dùng để bịt miệng những tiếng nói bất đồng. Trên giấy tờ, đó là hoạt động tố tụng bình thường. Nhưng đối chiếu với chính Bộ luật Tố tụng Hình sự, bức tranh hiện ra hoàn toàn ngược lại: đây là một màn bẻ cong pháp luật có chủ ý.
Điều 229 và 231 BLTTHS quy định rất rõ: chỉ được truy nã khi “không biết rõ bị can đang ở đâu” hoặc “bị can trốn tránh”. Nói cách khác, truy nã chỉ hợp pháp khi người đó lẩn trốn hoặc mất dấu. Trong trường hợp ba người nói trên, sự thật thì chế độ biết quá rõ họ đang ở đâu: đều cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức, có quy chế cư trú, địa chỉ rõ ràng, xuất hiện thường xuyên trên truyền thông, mạng xã hội, diễn đàn quốc tế.
Ngay trong cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đối với nhà báo Lê Trung Khoa, phần “Nơi ở hiện nay” ghi rất rõ: Cộng hòa Liên bang Đức. Một công ty tư nhân như Vingroup còn dễ dàng tìm ra địa chỉ của họ để khởi kiện tại tòa án Đức, không thể có chuyện cả bộ máy nhà nước “không biết họ đang ở đâu”. Vậy lấy tư cách gì để nói “truy nã” theo đúng nghĩa tố tụng?
Khi điều kiện tiên quyết của truy nã (“không biết nơi ở” hoặc “bỏ trốn”) không tồn tại, mà cơ quan điều tra cấp Bộ vẫn ký lệnh truy nã, thì đó không còn là sai sót nghiệp vụ mà là lạm quyền tố tụng. Biện pháp pháp lý bị biến dạng thành công cụ chính trị: gắn nhãn “tội phạm bỏ trốn” lên những người đang sống công khai, hợp pháp ở một quốc gia khác, nhằm tạo hiệu ứng tâm lý và bôi nhọ trước công chúng trong nước.
Trên bình diện quốc tế, những lệnh truy nã kiểu này gần như vô nghĩa. Một lệnh truy nã đỏ của Interpol chỉ được chấp nhận nếu việc khởi tố và truy nã không trái luật trong nước, không mang tính đàn áp chính trị. Điều 117 vốn đã là một điều luật đầy màu sắc chính trị, đi ngược chuẩn mực nhân quyền quốc tế; cộng thêm việc lạm dụng thủ tục truy nã trái với chính luật tố tụng Việt Nam, thì khả năng Interpol chấp nhận là bằng không. Với các quốc gia pháp quyền, những quyết định như vậy bị xem như văn bản vô hiệu.
Chế độ biết rất rõ họ không thể chạm tới tự do của những người đang ở Đức. Dù có xử vắng mặt, tuyên án tù giam, các bản án ấy vẫn chỉ nằm trên giấy. Tất cả quy trình tố tụng phô trương kia chủ yếu nhắm vào người dân trong nước: gieo sợ hãi, cắt đứt kết nối, đe dọa bất cứ ai dám liên lạc, cung cấp thông tin cho những tiếng nói đối lập ở hải ngoại.
Nguy hiểm hơn cả, là hệ quả đối với niềm tin pháp quyền. Một nhà nước chỉ có thể yêu cầu công dân tôn trọng pháp luật khi chính mình tuân thủ luật do mình đặt ra. Khi điều luật về truy nã ghi rất rõ, nhưng cơ quan công quyền vẫn cố tình làm ngược vì động cơ chính trị, thông điệp gửi ra xã hội không gì khác ngoài: pháp luật chỉ là công cụ, không phải giới hạn quyền lực.
Những “quyết định truy nã” dành cho bà Đặng Thị Huệ, luật sư Nguyễn Văn Đài và nhà báo Lê Trung Khoa vì thế trở thành bằng chứng sống động cho tình trạng vô pháp và sự chính trị hóa tư pháp ở Việt Nam: thay vì bảo vệ công lý, pháp luật bị bẻ cong để đàn áp công dân – kể cả khi họ đã ở ngoài biên giới quốc gia. Và đó là lúc chế độ không chỉ đánh mất tính chính danh trước thế giới, mà còn tự cắt dần sợi dây niềm tin cuối cùng với chính nhân dân của mình.
Đặng Mạnh










